Thực hiện Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) giai đoạn 2021-2025 phục vụ NTTS. Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và chỉ đạo Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định Nuôi trồng Thuỷ sản tiến hành quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng NTTS với 172 điểm quan trắc trên tôm hùm, cá nước lạnh, cá biển tại 29 tỉnh đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Cụ thể, đối với vùng nuôi tôm hùm: Kết quả quan trắc tháng 3 năm 2023 cho thấy, có 2/12 thông số nằm ngoài GHCP (N-NH4+, Vibrio ssp.), giảm 01 thông số (Coliforms) so với cùng kỳ năm 2022. Các thông số còn lại gồm: nhiệt độ, độ mặn, pH, N-NO2‑, P-PO43-, S2-, DO, COD, coliforms đều nằm trong GHCP. Ngoài ra, phát hiện một số loài tảo độc như: Peridinium sp., Ceratium sp. nhưng với mật độ thấp, chưa ảnh hưởng đến chất lượng nước và tôm hùm nuôi.
Thông số N-NH4+ và Vibrio spp. cùng có 8/42 mẫu vượt GHCP, chiếm 19,0 %. Tỷ lệ mẫu nằm ngoài GHCP của N-NH4+ tăng, trong khi đó Vibrio spp. giảm so với cùng kỳ năm 2022 (năm 2022, N-NH4+ chiếm 4,8%, Vibrio spp. chiếm 28,1%). Các mẫu có N-NH4+ vượt giới hạn xảy ra chủ yếu ở ven bờ các vùng nuôi Xuân Phương, Xuân Yên, Xuân Tự, Bình Ba; mật độ vi khuẩn Vibrio spp. vượt giới hạn xảy ra ở hầu hết các khu nuôi. Các thông số khác biến động không đáng kể, chưa ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm hùm quan trắc trong tháng 3 năm 2023 (đợt 5, 6) hầu hết ở mức tốt đến rất tốt (VN-WQI=78-96), ngoại trừ khu nuôi Xuân Phương, Xuân Yên (Phú Yên) ở mức trung bình (WQI=68) vào đợt 6. Chất lượng môi trường nước vùng nuôi tôm hùm ở Bình Ba (Khánh Hòa) được cải thiện so với tháng 2 năm 2023 (đợt 4 ở mức xấu,WQI=45), chất lượng môi trường nước các vùng nuôi tôm hùm biến động không đáng kể so với cùng kỳ năm 2022 (WQI=68-95).
Nuôi cá nước lạnh khu vực Tây Nguyên: Kết quả quan trắc mẫu nước cấp cho thấy các thông số quan trắc định kỳ tại Klong Klanh, hồ Tuyền Lâm phù hợp cho nuôi cá nước lạnh, ngoại trừ N-NH4+ nằm ngoài GHCP tại vị trí quan trắc hồ Tuyền Lâm (vượt 13 lần), giảm 02 thông số (pH, nhiệt độ) so với tháng 02/2023. Ngoài ra, phát hiện tảo giáp Ceratium sp. nhưng với mật độ thấp (2.000 tế bào/lít), chưa ảnh hưởng đến chất lượng nước và phát triển của cá nuôi.
Nuôi cá biển: Chất lượng môi trường vùng nuôi biển ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Kiên Giang ghi nhận muối dinh dưỡng N-NH4+ ở một số khu vực nuôi của Hải Phòng và Kiên Giang vượt GHCP; hàm lượng COD chỉ ghi nhận vượt ngưỡng cho phép ở vùng nuôi biển của Quảng Ninh. Tuy nhiên, mức độ vượt khoảng GHCP của các thông số này không nhiều.
Kết quả quan trắc N-NH4+ có 9/56 mẫu (tỷ lệ 16,1%) vượt khoảng GHCP, chủ yếu ghi nhận ở vùng Hang Vẹm - Vụng O (Hải Phòng) và hòn Nhum, hòn Heo (Kiên Giang); COD có 2/66 mẫu (tỷ lệ 3,6%) vượt GHCP, chỉ ghi nhận ở vùng Quảng Ninh. Các thông số môi trường khác biến động không lớn và nằm trong khoảng GHCP. So với đợt quan trắc tháng 3/2022, kết quả quan trắc trong tháng 3/2023 ghi nhận tỷ lệ số mẫu và số thông số có hàm lượng vượt khoảng GHCP thấp hơn, nhất là vùng nuôi của Hải Phòng, Kiên Giang, đặc biệt không ghi nhận sự thiếu hụt ôxy cục bộ như đợt quan trắc cùng kỳ của năm trước.
Quần xã TVPD hầu hết ở mức đa dạng khá phong phú, chỉ số cân bằng J ở mức khá bền vững. Chỉ số H’ ở mức thể hiện chất lượng môi trường nước ô nhiễm trung bình dạng β, ngoại trừ vùng nuôi ở hòn Béo Cò và hòn Tây Hoi (Quảng Ninh) ở mức ô nhiễm trung bình dạng α. Kết quả quan trắc ghi nhận một số loài tảo độc Alexandrium affine ở vùng Cát Bà, Pseudo-nitzschia spp. và Dinophysis miles ở vùng Kiên Giang nhưng với mật độ thấp (< 5.000tb/l).
Mật độ Vibrio tổng số ở vùng nuôi của Quảng Ninh và Hải Phòng khá cao, cục bộ tại một số điểm nuôi vẫn ghi nhận mật độ cao và vượt ngưỡng đề xuất phù hợp với NTTS; ở vùng nuôi của Hải Phòng có 3/5 mẫu, đạt tỷ lệ 60,0%, vượt ngưỡng, ghi nhận ở khu vực Hang Vẹm - Vụng O; ở vùng Quảng Ninh có 2/12 mẫu vượt ngưỡng, đạt tỷ lệ 16,7%; ở vùng nuôi của Kiên Giang có mật độ Vibrio tổng số cao nhưng vẵn nằm trong khoảng cho phép. Mật độ Coliform ở các vùng nuôi cá biển của Hải Phòng, Quảng Ninh và Kiên Giang được quan trắc đều thấp hơn GHCP.
Chỉ số chất lượng nước (WQI) các vùng nuôi biển được quan trắc đều ở mức tốt đến rất tốt. Tuy nhiên, khu vực nuôi ở Hang Vẹm - Vụng O (Hải Phòng), khu Thắng Lợi (Quảng Ninh) có chất lượng nước gần đạt mức trung bình, cũng tương ứng là khu vực có mật độ Vibrio tổng số ở mức vượt từ 5,6 lần và 3,1 lần ngưỡng cho phép. Đây là những khu vực nuôi cần được tăng cường theo dõi và quản lý môi trường vùng nuôi.
Sau khi có kết quả quan trắc, kết hợp với bản tin dự báo tình hình thời tiết của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia; Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Hải sản và Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định Nuôi trồng Thuỷ sản gửi thông báo kết quả quan trắc đến Chi cục Thuỷ sản/Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thuỷ sản, phòng nông nghiệp huyện, các doanh nghiệp và cơ sở NTTS bằng hình thức email, EMS, zalo… để triển khai ngay các biện pháp ổn định môi trường vùng nuôi; cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường. Trên cơ sở kết quả quan trắc Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với các đơn vị ban hành bản tin cảnh báo diễn biến môi trường vùng nuôi tại 3 miền; ban hành công văn số 346/TCTS-NTTS về hướng dẫn, tăng cường nuôi nhuyễn thể năm 2023. Đồng thời, đề nghị các địa phương thông báo và có các giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững; cập nhập kết quả quan trắc môi trường vào cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường tại địa chỉ http://csdlquantrac.tongcucthuysan.gov.vn:85.
Nguồn: www.tongcucthuysan.gov.vn