Trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hiện nay, thuốc sinh học hiện chiếm 19% khối lượng sử dụng và tăng dần theo thời gian. Thuốc BVTV sinh học muốn được sản xuất, lưu hành, phát huy hiệu quả trong ngành trồng trọt cần có hệ thống pháp lý chặt chẽ.
Hôm nay (2/11), Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&PTNT) tổ chức hội nghị về "Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học". Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung cho biết, tính đến tháng 10 năm nay, riêng kim ngạch xuất khẩu của ngành trồng trọt là khoảng 22 tỷ USD, đóng góp gần 50% toàn ngành nông nghiệp.
Bên cạnh việc đảm bảo kiểm soát sâu bệnh và dịch hại, nhiệm vụ trọng tâm của ngành trồng trọt đó là hỗ trợ các chủ trương của ngành nông nghiệp trong việc phát triển bền vững, xanh và chất lượng cao. Do đó định hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV là rất quan trọng và đã được đề cập trong các đề án của ngành nông nghiệp, trong đó ưu tiên phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
"Bộ NN&PTNT đánh giá rất cao nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội, địa phương đã đồng hành và tạo ra các kết quả tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong thời gian qua như xây dựng được các mô hình sử dụng thuốc BVTV sinh học; thay đổi nhận thức, tư duy của người dân; tạo ra các sản phẩm thuốc BVTV sinh học và ứng dụng vào sản xuất. Trong danh mục thuốc BVTV hiện nay, thuốc sinh học hiện chiếm 19% khối lượng sử dụng và tăng dần theo thời gian; lợi ích từ sử dụng thuốc sinh học rất rõ. Đây là tiền đề để thực hiện hiệu quả việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học trong thời gian tới", Thứ trưởng Hoàng Trung cho biết.
Hội nghị về "Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học"
Tại Việt Nam, nhằm cụ thể hóa các chính sách về thuốc BVTV sinh học, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng và triển khai chương trình "Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học giai đoạn 2021 - 2025". Trong công tác quản lý, một số chính sách ưu tiên về đăng ký thuốc BVTV sinh học so với các thuốc BVTV hoá học đã được ban hành và triển khai.
Đối với thuốc BVTV sinh học, nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện đại để tạo ra thuốc BVTV sinh học đã được quy định tại Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật. Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), số liệu từ các địa phương cho thấy, trong 3 năm gần đây (2020-2022), tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trung bình cả nước đang xu hướng giảm dần qua các năm từ 3,81 kg/ha năm 2020 giảm xuống 3,19 kg/ha năm 2022. Trong đó, lượng thuốc BVTV sinh học sử dụng trung bình trên cả nước vẫn được sử dụng ở mức ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% năm 2020 lên 18,49% năm 2022.
Tại hội nghị, Hiệp hội CropLife Châu Á và CropLife Việt Nam đã chia sẻ về xu hướng nghiên cứu, phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học trên thế giới cũng như một số đề xuất để thúc đẩy ứng dụng tại các nước có mô hình canh tác quy mô nhỏ, trong đó có Việt Nam. Theo chia sẻ của tổ chức CropLife Châu Á, trên quy mô toàn cầu, ngoài hơn 600 hoạt chất BVTV tổng hợp, hiện có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Bắc Mỹ hiện đang là khu vực có tỷ lệ ứng dụng thuốc BVTV sinh học cao nhất. Trong giai đoạn 2005 – 2025; mức độ tăng trưởng thị trường thuốc BVTV sinh học bình quân hàng năm là 10% trong khi tỷ lệ này của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm. Tổ chức cũng nhấn mạnh vai trò của thuốc BVTV sinh học khi đây được xem là một trong những công cụ hữu hiệu trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và chương trình quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM) khi kết hợp cùng với các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác, biện pháp canh tác và các yêu tố đầu vào… để đảm bảo năng suất và chất lượng tối ưu trong việc phòng trừ dịch hại.
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam cho rằng cần đổi mới công tác quản lý thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam. Những đổi mới này bao gồm cập nhật, cụ thể hoá khái niệm thuốc BVTV; bổ sung quy định đối với sản phẩm sinh học mới; đơn giản hoá, loại bỏ một số thủ tục và yêu cầu về số liệu thử nghiệm đối với thuốc BVTV sinh học và đưa ra hướng dẫn về trường hợp thuốc BVTV sinh học được đăng ký đặc cách…
Kinh nghiệm quản lý và ứng dụng thuốc BVTV sinh học tại nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy cần áp dụng cách tiếp cận linh hoạt để đăng ký thuốc BVTV sinh học. Cần dựa vào những đánh giá khoa học và điều kiện thực tiễn sẽ giúp đi tắt, đón đầu trong việc ứng dụng các loại thuốc BVTV sinh học mới. Đồng thời cần duy trì tính nhất quán với những khuôn khổ pháp lý về thuốc BVTV sinh học đã có.
Ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA) đã chia sẻ một số khó khăn, hạn chế trong việc ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong điều kiện canh tác quy mô nhỏ tại Việt Nam như hiệu lực sinh học thấp, giá thành cao và ít lựa chọn. Ông cho rằng thuốc BVTV sinh học chưa thể thay thế hoàn toàn thuốc BVTV hoá học trong giai đoạn hiện nay.
Tiến sỹ Tony Alfonso, Chủ tịch Tổ công tác về Thuốc BVTV Sinh học – CropLife Châu Á cho rằng thuốc BVTV sinh học mang lại các cơ hội và lợi ích nổi bật, nhưng không nên xem như biện pháp thay thế cho thuốc BVTV hoá học. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc triển khai hệ thống pháp lý có tính dự báo và phù hợp đối với thuốc BVTV sinh học để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả nhất quán của sản phẩm mà không làm hạn chế việc giới thiệu và thương mại thuốc BVTV sinh học trên thị trường, trong đó cần có những hướng dẫn đăng ký và quản lý riêng đối với thuốc BVTV và cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung cũng chỉ ra một số hạn chế, khó khăn khi phát triển thuốc BVTV tại Việt Nam như: nhận thức của doanh nghiệp, người dân và địa phương còn hạn chế; quy định hiện nay chưa thực sự tạo động lực và hấp dẫn để chuyển hướng nghiên cứu phát triển thuốc sinh học; nghiên cứu về thuốc sinh học tập trung chủ yếu ở bước phòng thí nghiệm; hiện số lượng mô hình còn ít, cần đa dạng hơn… Các đại biểu tham dự hội nghị đã cùng nhau thảo luận và đưa ra các nhóm giải pháp cho vấn đề này. Điển hình như về cơ chế chính sách, cần tiếp tục rà soát, đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Về khoa học công nghệ, cần khuyến khích liên kết nghiên cứu, phát triển thuốc sinh học giữa các doanh nghiệp với các viện, trường hoặc các doanh nghiệp khoa học công nghệ được thực hiện các dự án theo hình thức hợp tác công tư trong lĩnh vực này. Cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến việc tuân thủ thực thi pháp luật, các chính sách của Chính phủ, Bộ NN&PTNT về ưu tiên trong việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học; tăng cường hợp tác công tư với sự tham gia của doanh nghiệp, nhà nước, Hiệp hội ngành hàng và người dân cùng phối hợp thực hiện sử dụng thuốc BVTV sinh học trong sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thuốc BVTV sinh học, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm và năng lực của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế như FAO, WHO... để phát triển thuốc BVTV sinh học; chuyển giao các công nghệ mới, tiên tiến trong sản xuất thuốc BVTV sinh học.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với sản xuất, kinh doanh, buôn bán và sử dụng thuốc BVTV, nhất là công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thuốc BVTV.
Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ