Bộ ba quy định và trách nhiệm của nhà sản xuất với chất thải bỏ

Thứ 5, 13/04/2023, 05:24 GMT+7

Chất thải rắn đang trở thành vấn nạn và thách thức lớn của thế giới, trong đó có Việt Nam. Làm thế nào để quản lý hiệu quả chất thải rắn, hạn chế tối đa việc thải bỏ ra môi trường và có thể biến nó thành nguyên liệu cho một vòng sản xuất mới, đem lại giá trị kinh tế và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm soát và bằng các chế tài cụ thể, đảm bảo sự nghiêm minh, công bằng.

Bộ ba quy định và trách nhiệm của nhà sản xuất với chất thải bỏ

Ông Phan Tuấn Hùng- Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ TN&MT) trao đổi với các doanh nghiệp về Fs

Hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiếp tục lấy ý kiến các tổ chức quốc tế và các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu và các hiệp hội, doanh nghiệp tái chế chất thải về xây dựng định mức chi phí tái chế sản phẩm, bao bì (Fs).

Những chế tài quản lý

Hiện nay, hơn 71% chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, 16% chế biến phân compost, 13% thiêu đốt,… Số liệu này là số liệu của chất thải rắn sinh hoạt sau khi đã được hệ thống đồng nát thu gom các vật liệu có thể tái chế được. Tuy nhiên, khi ra đến bãi rác thì chúng ta vẫn còn đến hơn 60% là rác thải hữu cơ; gần 20% chất thải nhựa và vật liệu có thể tái chế được; còn lại là những loại chất thải khác. Trước thực trang đó, ngày 03/02/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ số 09/NQ-CP trong đó Chính phủ thống nhất: Giao Bộ TN&MT là cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải trên địa bàn (vì trước đó, việc quản lý nhà nước về chất thải rắn sinh hoạt còn phân mảng giữa các Bộ như: Bộ TN&MT, Bộ Xây dựng, Bộ KH&CN, Bộ Y tế).

Bộ ba quy định và trách nhiệm của nhà sản xuất với chất thải bỏ

ảnh minh họa

Ngay sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP, Bộ TN&MT đã tham mưu ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp luật, kế hoạch, đề án, chỉ thị để thúc đẩy quản lý nhà nước về quản lý chất thải rắn sinh hoạt như: Nghị định 40/2019/NĐ-CP; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01/12/2020 về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn; Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2022 về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1316/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 về Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.

Đặc biệt, Bộ TN&MT đã tham mưu bổ sung nhiều cơ chế, chính sách mới về quản lý CTRSH trong Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ TN&MT, theo đó, đã thay đổi chính sách phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn từ việc giao cho địa phương thực hiện phù hợp với điều kiện của mình sang phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn theo lượng (bắt buộc thực hiện đối với chính quyền, người dân trả tiền dịch vụ thu gom xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo lượng thải ra); quy định về lộ trình hạn chế chôn lấp trực tiếp CTRSH; tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lý CTRSH; thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH từ hộ gia đình, cá nhân theo khối lượng hoặc thể tích chất thải; hướng dẫn về phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; quy định về trách nhiệm xử lý, tái chế sản phẩm, bao bì sau sử dụng của nhà sản xuất nhập khẩu (thường gọi là “trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất - EPR”); quy định về kinh tế tuần hoàn; quy định về quản lý chất thải nhựa; quy định ưu đãi, hỗ trợ các hoạt động thu gom xử lý, tái chế chất thải rắn sinh hoạt,...

Bộ ba quy định và trách nhiệm của nhà sản xuất

Theo ông Nguyễn Thi, chuyên viên Vụ Pháp chế (Bộ TN&MT) thì, “bộ ba quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn theo cơ chế định giá thu gom xử lý theo lượng; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất; kinh tế tuần hoàn là những quy định then chốt để đổi mới việc quản lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng. Đây chính là bộ ba rất quan trọng hình thành vững chắc kinh tế tuần hoàn”.

Bộ ba quy định và trách nhiệm của nhà sản xuất với chất thải bỏ

Săm lốp- sản phẩm bắt buộc phải thực hiện EPR

Nếu kinh tế tuần hoàn (KTTH) hiện nay là cơ chế tự nguyện, cơ chế thúc đẩy tự thân của nhà sản xuất, phân phối, tiêu dùng để thay đổi thiết kế sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường (sử dụng nguyên nhiên liệu thân thiện với môi trường, thiết kế kéo dài vòng đời sản phẩm, dễ thu gom tái sử dụng, tái chế; áp dụng công nghệ tiên tiến…); thực hiện việc bảo dưỡng, bảo trì sản phẩm để kéo dài vòng đời; sử dụng sản phẩm thông minh; thực hiện việc thu gom, tái sử dụng và tái chế các sản phẩm sau sử dụng,..

Việc định giá thu gom xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo lượng là cơ chế bắt buộc đối với cơ quan nhà nước trong tổ chức thực hiện và thúc đẩy người dân phân loại bằng cơ chế tài chính (xả nhiều thì trả nhiều). Theo đó, chất thải rắn sinh hoạt được chia thành 3 loại: Chất thải có thể tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải khác. Chính quyền địa phương phải tổ chức việc thu gom, lưu chứa, xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo từng loại chất thải nêu trên, không được trộn lẫn; phát hành túi đựng chất thải thực phẩm và chất thải khác để hộ gia đình, cá nhân mua về đựng rác (thay cho việc trả phí đổ đồng đầu người như hiện nay). Nếu người dân không phân loại thì phải cho cả vào túi này. Như vậy, thúc đẩy người dân phân loại rác, giảm thiểu rác bằng công cụ tài chính, đánh vào túi tiền của người dân, nếu phân loại, giảm thiểu thì sẽ sử dụng túi ít hơn như vậy sẽ phải trả ít tiền hơn.

Còn EPR là bắt buộc đối với nhà sản xuất, nhập khẩu trong thực hiện việc thu gom xử lý sản phẩm, bao bì sau sử dụng. Theo đó, nhà sản xuất, nhập khẩu có thể tự tổ chức thu gom tái chế hoặc nộp tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam để hỗ trợ hoạt động phân loại, thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì, chất thải rắn sinh hoạt, vỏ hóa chất bảo về thực vật sau sử dụng. Như vậy, EPR là công cụ mang tính chất hỗ hợp tài chính, kỹ thuật để thúc đẩy việc phân loại, thu gom, tái chế, xử lý chất thải, là một mắt xích quan trọng trong kinh tế tuần hoàn. Doanh nghiệp thực hiện EPR sẽ cơ bản hoàn thành các yếu tố và hình thức thực hiện KTTH.

Từ đó cho thấy, EPR, phân loại rác tại nguồn với ý nghĩa là một công cụ bắt buộc để thực hiện phân loại, thu gom, tái chế, tái sử dụng chất thải rắn sinh hoạt, sẽ làm cho KTTH từ một chính sách mang tính tự nguyện trở thành được thực hiện một cách mạnh mẽ và có thể hiểu là nửa bắt buộc vậy.

Giải pháp quản lý chất thải trong nền kinh tế tuần hoàn

Chính sách về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của nước ta đã có và nó bắt kịp với chính sách quản lý tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới, vấn đề là chúng ta tổ chức thực hiện như thế nào, một số chuyên gia, nhà quản lý đề xuất như sau:

Kinh phí để triển khai: Cần sử dụng hiệu quả kinh phí sự nghiệp môi trường; đa dạng hóa các nguồn lực; thúc đẩy hợp tác đối tác công tư (PPP) trong quản lý chất thải sắn sinh hoạt. Bộ TN&MT đã tham mưu chính sách đa dạng hóa nguồn tài chính trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt như tín dụng xanh, trái phiếu xanh, ưu đãi hộ trợ trong xử lý, tái chế chất thải; chính sách về EPR chính là để tạo ra nguồn tài chính để hỗ trợ quá trình này. Được biết, Bộ TN&MT đang tiếp tục xây dựng hoàn thiện chính sách, đồng thời có những giải pháp để tăng cường việc tiếp cận các nguồn lực, hợp tác quốc tế trong vấn đề này; hướng dẫn địa phương hợp tác thúc đẩy quản lý chất thải rắn sinh hoạt.

Nâng cao nhận thức cộng đồng về phân loại rác tại nguồn, việc thực hiện cần đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, trong giáo dục, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong đa phương tiện; trong các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bộ TN&MT phối hợp với các bộ ngành, các tổ chức để thực hiện việc nâng cao nhận thức cộng đồng một cách đồng bộ và thuận chiều.

Định hướng công nghệ theo các chuỗi ưu tiên 1. Tái sử dụng; 2. Tái chế; 3. Thu hồi nhiên liệu, nguyên liệu, năng lượng; 4. Xử lý triệt để trước khi chôn lấp.

Tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, hiệp hội, cộng đồng, doanh nghiệp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong việc tham gia giám sát, trong việc tổ chức thực hiện đặc biệt là nâng cao nhận thức cộng đồng; cải tiến, thay đổi thiết kế sản phẩm từ tự thân các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội,…

Tổ chức thực hiện EPR với vai trò không chỉ là nguồn kinh phí tương đối ổn định để hỗ trợ hoạt động phân loại, thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì, chất thải mà còn là công cụ tài chính hữu hiệu để các doanh nghiệp cải tiến, thay đổi thiết kế sản phẩm, kéo dài vòng đời sản phẩm, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường.

Phối hợp để tạo thị trường đầu ra cho các sản phẩm tái chế như tỷ lệ sử dụng nguyên, nhiên vật liệu tái chế trong sản xuất; quy chuẩn kỹ thuật về an toàn sức khỏe và môi trường đối với các sản phẩm tái chế…

Thúc đẩy quy hoạch quản lý chất thải rắn sinh hoạt với mục tiêu phát triển hạ tầng thu gom, tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải đồng bộ, quy mô, chuyên nghiệp và phát huy lợi thế vùng.

Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu môi trường trong đó chú trọng phát triển cơ sở dữ liệu quản lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng, nhằm thực thi hiệu quả chức năng quản lý thống nhất nhà nước về chất thải rắn sinh hoạt.

Nguồn: www.tainguyenvamoitruong.vn

Ý kiến bạn đọc